Ca dao là tiếng nói trung thực, phản ảnh rõ nét nhất trong văn chương bình dân, được miêu tả sự việc xảy ra hằng ngày giữa cuộc đời và trở thành những câu hò, điệu hát của nhân gian như những bản tình ca bất diệt, đượm màu thế tục; tình yêu,tình đời với một ẩn dụ tự nhiên làm cho người ca ngâm cũng như người nghe có một cảm nhận gần gũi, tuyệt vời. Ca dao còn hóa giải mọi tình huống uẩn khúc, lời ca ấy làm cho con người không còn cảm thấy đau khổ nữa “L’homme souffre,mais en chantan sa souffrace,il la dépasse”.
Vì vậy; nói đến văn chương bình dân chúng ta không thể quên thi ca bình dân mà ca dao nắm một vai trò chủ lực và những thể loại quen thuộc, không ước lệ, không qui cách, tuy nhiên lời thơ của ca dao vẫn giữ đúng vần điệu có khi rất chuẩn về luật bằng trắc nhờ đó mà dễ đả thông tư tưởng, trực chỉ vào lòng người một cách sâu lắng.
Ca dao là ca hát, tự nó trở thành khúc đi thẳng vào lòng và bày tỏ được nội giới dù dưới một không gian hay thời gian nào ngoài ra ca dao còn là gia-huấn-ca, một tâm lý đạo đức, dạy làm người… đôi khi văn thơ phải mượn ngôn từ của ca dao để nói lên cái tình người, tình đời một cách chính xác hơn.
giáo dục con trẻ khi mới lớn:
Những câu ca dao lục bát như thế ắt phải nằm sẵn trên môi của mọi người một cách dễ dàng và thông đạt lắm!
Hình ảnh “anh đi ba bữa” rồi ”chớ hề ở lâu” nó biến ca dao thành thi ca, từ những hiện tượng thực thể biến thành tha thể xuất phát từ ngoại giới đi vào nội giới giữa mối liên hệ tha nhân và chủ thể nó cặp kè, sánh vai trong hoàn cảnh đối đáp để nên vợ nên chồng, ca dao không còn hiện diện với ca với hát mà biến dạng thành hò, câu hò trực diện với thực tại như một sự hiến dâng!
Cái vũ trụ mộng mơ ấy hoàn toàn ở trong đôi mắt chiêm ngưỡng của con người khi phóng cái nhìn vào tương lai giữa sự viên mãn của tình yêu. Vũ trụ này chưa hiện thực rốt ráo nhưng đã xuất phát một ước vọng thực hữu. Hình ảnh cuộc đời không bị tha hóa mà bắt nguồn từ vũ trụ thực hữu; vì vũ trụ ấy có thực trong cuộc đời này.
Cái ngó ấy là cái ngó thức tỉnh, một cái ngó của kẻ tình si và cũng là cái nhìn mơ mộng của người đồng quê đứng trước cuộc đời có thực. Chính đó là sự sáng tạo của ca dao. Nói đến mơ mộng hình như chúng ta đụng phải một phản ứng tâm lý. Theo tâm lý học giải thích: khi mơ mộng thì đó không phải là một trạng thái thức tỉnh. Tâm lý học quan niệm như thế nầy ”En suivant la pente de la reverie” Tiếp đó là cái mơ về của ý thức thức tỉnh “đỡ sầu” nằm trong ý thức mơ về (rêver à/daydreaming) mà ở đây mơ không có nghĩa là buông xả theo giòng đời và chìm dần trong mộng để rồi mất luôn tính sáng tạo nghệ thuật vì ý thức thức tỉnh thường đối lập với ý thức thức tỉnh nghệ thuật và làm lu mờ ý thức mơ về cho dù trong chiêm bao chăng nữa đã cho thấy một ý thức thức tỉnh.
Thành ra mơ chiêm bao ở đây là cái nhìn sáng tỏ của cái mơ về giữa duyên, nợ và tình đã bừng lên trong ý thức về thân phận của người phụ nữ.
Ca dao như thế đấy! mỗi khi đọc lên đã cho chúng ta cái cảm giác tợ như ức chế, như phụ rẫy như khoa phân tâm học quan niệm. Lối thoát bằng ức chế chỉ xảy ra với cảnh đời, những người bị tập quán kiềm chế mới lâm vào khát vọng của bản năng cho nên mới tìm lối thoát bằng lối này hay hình thái khác để tránh né. Quan điểm đó đôi khi cũng có tính võ đoán và không hoàn toàn đúng hẳn, cho nên đừng để cái nhìn ức chế vào đây. Vì sao? Vì “anh thương em” có nghĩa là đừng vội đánh mất cái đẹp mà đây là tiếng nói mặn mà, bất luận ở đâu nơi chốn nào người phụ nữ Việt Nam đoan trang trong tiếng nói ấy tức tiếng nói của ca dao, nói soi sáng, tiếng nói của ái tình.
Đó là một thứ gì vô biên chân thật của tình đồng quê một bày tỏ cao nhất trong đời nhưng biết nói làm sao khi ý thức vô biên chưa có thì nói làm sao khi cái nhìn tuyệt đối chỉ ngưng trong hiện tượng của đất trời cho nên họ không ngần ngại bộc bạch một cách chân tình cho dù ngập ngừng bày tỏ “ơ.. ơ chớ một ơ.. ơ mình ơ.. bơ vơ” Ca dao nông thôn nó diễn tả tích cực như thế đó! diễn tả cái mùi vị chất phát mặn mà, đượm bạc, ngập ngừng dễ yêu ấy.
Ý nghĩa của ca dao là ở cái chỗ mộc mạc đơn sơ nhưng lại là một sự thức tỉnh nội tại, một sự khám phá của con người vừa hào hứng vừa can đảm mà chúng ta phải đón nhận như chính chúng ta đón nhận cuộc đời này. Đó là cái nhìn khám phá:
- Khám phá ngoại giới bằng cái nhìn nội tâm.
Mỗi lúc cái nhìn hay cái nhớ càng phóng ra rộng rãi, càng thấy cuộc đời đẹp và bao la diệu vợi, kể cả nụ cười nhe răng ”cần cẩu” vẫn là niềm nhớ không quên, bởi vì; chán gì những cái nhớ mà lại đi nhớ hàm răng em cười, biết đâu trong cái nhớ đó có một chút gì lãng mạn của ca dao(?), tầm thường thật nhưng bao la và mênh mông vô cùng đối với ngôn từ của ca dao.

Do đấy con người của ca dao là con người của cuộc đời, của vũ trụ chớ không phải con người chỉ là con người như một ý thức bi đát về người. Lối về của vũ trụ đã chiếm cứ hiện tượng bằng bản ngã của mình, chính là lối đi về của tình thương, cái tình mà con người tìm thấy; tất cả ca dao là ở chỗ ấy và có thể nói ca dao có hai bề mặt là bản ngã và vô ngã cả hai mảng nầy dùng để xoa dịu những xót thương hay thương mong về tình cảnh khi con người mới dấn thân vào đời và vũ trụ.,vì tâm thức và trí tưởng của ta đủ khả năng giúp ta sáng tạo những gì mà ta nhận thức được.
Tất cả là biểu tượng để biểu dương trạng thái mơ về (Rêve a/daydreaming) đó là trạng thái thắc mắc về nhớ thương. Đấy là tâm hồn hiến dâng cho vũ trụ “chiều chiều” là thời gian thuộc khách thể, cái đau đớn “ruột đau” là thế giới của nội tại. Với ca dao những ngôn từ thường chứa đựng một nội dung mới của từ ngữ đều qui định một tâm thức trước cuộc đời và vũ trụ.
Đó là hiện thực của sự bày tỏ về cảnh giới giữa thành thị với nông thôn và ngôn từ của cuộc sống đã lý giải cái tâm sự tha thiết và chân thật của người yêu, chân thật ở cái chỗ ẩn dụ đó. Người nghệ sĩ bình dân sắp xếp ngôn từ trong thơ để có cái nhìn sự vật và chính cái nhìn đó thoát ra một số tâm lý của con người và chính cái tầm thường đó chẳng hạn như “râu tôm” hay ”ruột bầu” ở những nơi thôn dã đìu hiu được người nghệ sĩ cho sống lại cái tình chân đó như một đòi hỏi cần thiết mà nghe rất bình dị của lớp người muôn đời trong ao tù nước đọng. Ca dao bình dân nói lên được cái khát vọng đó mà nhà thơ bình dân của chúng ta hoà nhập một cách tài tình giữa vũ trụ đầy khát vọng tình người.
Đọc lên ta cảm nhận được phần nào lẽ sống, một lẽ sống nồng đượm của tình yêu khát khao đi từ chủ thể con người đến cuộc đời. Ca dao diễn đạt được cái mối dây liên lạc ấy. Mối dây đó không phải hai chiều giữa người và sự vật. Vũ trụ khát vọng của ca dao là hình ảnh cuộc đời mà con người mơ về một cái gì tầm thường nhưng ước sống. dao tạo được cảnh giới mơ về cho những người thành thị và những người xa tầm vóc bình thường. Ngay cả việc mơ về của tình yêu trong cái dung dị đó nó đã hàm chứa một tương lai, một lối đi về của cuộc đời. Mơ về ở đây là cuộc đời có thực chính đấy là phần ý nghĩa hiện hữu của con người. Ca dao tạo nên những giấc mơ hiện thực như vậy đó; cho nên cuộc đời mà ca dao vốn có ý nghĩa và sống có ý nghĩa để đưa tới cảnh đời hiện thực.
Cho nên văn chương bình dân thường nói lên tâm trạng khát vọng đôi khi nó pha lẫn màu sắc triết lý tiềm ẩn trong ca dao, nó có cái gì mầu nhiệm trong cuộc đời tình ái, đầy bí ẩn trong cái nhìn ẩn dụ (metaphorical) của con người đó là biện-chứng-tức-thì trong mỗi tâm trạng, một tình cảm đơn thuần. Nhưng với triết học có một sự tương quan tối thiểu giữa ta và cuộc đời như một tương quan giữa chủ thể và tha thể; đó là tương quan giữa con người với cuộc đời. Nên chi vượt qua cái nhìn đối tượng và cũng nhờ cái nhìn đó mà vượt qua được giới hạn để đi tới một giá trị trực tiếp.
Ca dao còn là hình ảnh, ở đây là những hiện tượng của bản thể. Do đó hình ảnh không còn là hiện tượng đơn thuần mà hiện tượng có nội dung cho nên mới được gọi là hình ảnh. Chính những chất liệu trong ca dao đã tạo nên hình ảnh, hình ảnh của vật thể, hình ảnh của vũ trụ, hình ảnh của tình yêu. Đó là những cái nhìn khai phóng của chúng ta để tìm ra cái nội dung đó; với cái nhìn của ca dao luôn luôn có sự ẩn giấu, tiềm ẩn, đẩy cái hình ảnh đó như thúc giục người nghệ sĩ ca dao phải ẩn mình, đấy là cái nhìn thuở ban đầu. Cái nhìn hai chiều song phương từ bản thể đến hiện tượng để rồi từ hiện tượng qui về bản thể tạo nên một nội dung hình thể như thế là cái nhìn trực tiếp của ca dao nói riêng và thi ca nói chung do đó những sự vật cùng từ ngữ tham dự vào cuộc đời và tạo nên hình ảnh và từ hình ảnh tạo nên ý nghĩa của mình. Cái nhìn đồng hoá mình với sự vật như vậy là cái nhìn trực tiếp đi vào bản thể không cần tìm đến bản thể mà thấy hiện tượng từ bản thể và từ đó tình yêu được bừng sáng lên và hiện hữu “Tôi đặt trái táo trên bàn, rồi tôi hoà mình vào trong trái táo. Ôi! tuyệt vời biết là bao…” (Henri Michaux) Tuy không trực tiếp bằng cái nhìn phối hợp của ca dao nhưng cũng tương đồng ý nghĩa. Tâm trạng đó người ta gọi là ý thức biểu tượng.
Võ Công Liêm