Nguồn: Internet
Trong sách của Lâm Ngữ Đường nhận xét về Từ: “Măng tre là vật quý trong loài rau, quả vải là vật quý trong loại trái cây, cua là vật quý trong loài thủy tộc, rượu là vật quý trong sự ẩm thực, trăng là vật quý trên trời, Tây Hồ là vật quý về sơn thủy, từ khúc là vật quý trong văn chương.”(1)
Chú thích trong bài Qui Khứ Lai Từ của Đào Tiềm, trong tập Cổ Văn Trung Quốc, học giả Nguyễn Hiến Lê viết:
“Từ là một thể văn xuôi có vần, có lẽ phát sinh ở nước Sở từ thời Chiến Quốc nhưng thời đó chưa cần phải có vần. Ngày nay chúng ta có thể coi thể này như một thể thơ mà số chữ trong câu không nhất định” (2)
Về chi tiết này, trong cùng tác phẩm vừa dẫn, tác giả nhắc người đọc xem thêm phần tiểu sử của Khuất Nguyên, theo đó, Nguyễn tiên sinh có ghi lại:
“Chúng tôi đã do dự không biết nên sắp tác phẩm của Khuất Nguyên vào tập này không. Những thiên Sở Từ của ông nhất định là thơ rồi, một thể thơ xuất phát từ dân ca nước Sở, về hình thức khác hẳn với dân ca trong Kinh Thi, do đó cũng khác hẳn với những thơ ngũ ngôn, thất ngôn đời sau. Vậy thì trích dẫn Sở Từ trong một tập sách văn tuyển, e không hợp lý; nhưng nếu không trích dẫn thì làm sao độc giả nhận được uyên nguyên những bài từ, bài phú thời Tần, Hán về sau, mà những bài nửa thơ nửa tản này có một địa vị đặc biệt trong văn học Trung Quốc, không thể nào không giới thiệu được. Đằng nào thì cũng mắc lỗi, thôi thì tùy lượng của độc giả. (…)
Tập Sở Từ gồm những thiên Ly Tao, Cửu Ca, Cửu Chương, Chiêu Hồn… Hay nhất là những thiên Ly Tao.” (3)
Và cũng từ những ghi chép lại vừa rồi, chúng tôi lần mò mở lại bộ Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, thì thấy ở chương V: Văn Nghệ, mục 5, có ghi:
“Các sách Trang tử, Hoài Nam tử, là tổ của văn chương; Sử ký, Tả truyện, là tổ của sử học; Sở từ là tổ của từ phú. (…) Xưa kia chưa có từ phú, đến Khuất Nguyên mới khởi xướng lên ở nước Sở, rồi Tống Ngọc, Đường Lặc, và Cảnh Sai, họa theo; mỗi câu đều bay bướm, mà từ đó thể thơ đổi hẳn.”(4)
Để nói rõ thêm về Từ, nhà văn Nguyễn Hiến Lê bàn rất kỹ trong tác phẩm Sử Trung Quốc, đời nhà Tống:
“Từ phát sinh ở cuối Đường, tiến triển ở thời Ngũ Đại và toàn thịnh ở đời Tống. Nói đến từ người ta nghĩ ngay đến đời Tống, cũng như nói đến thơ người ta nghĩ ngay đến đời Đường.
Trên thì thiên tử, đại thần, văn nhân, dưới thì kỹ nữ, ca nhi, con buôn, dân quê ai cũng làm được từ. Sự hưng thịnh đó có ba nguyên nhân:
- Luật thi câu thúc quá, người ta thích thể từ hơn, nó tự do hơn, có câu dài câu ngắn, chỉ cần hợp âm luật thôi, dễ biểu tình, đạt ý.
- Nhiều ông vua khuyến khích từ nhân (người làm từ) mà còn soạn nhiều khúc mới nữa.
- Từ để ca, là những bài hát, nên được phổ biến rộng rãi trong dân.
Về hình thức, có hai loại từ: Tiểu từ (ngắn) và mạn từ (dài).
Về nội dung, có hai phái:
- Nam phái như Liễu Vĩnh, Tân Quan, theo khuynh hướng thời Ngũ Đại, dùng những lời diễm lệ và du dương để tả những tình thương nhớ, buồn tủi.
- Bắc phái, trái lại, như Tô Thức, Tân Khí Tật, hùng tráng, phóng dật không chịu sự câu thúc của âm luật, tung hoành ngọn bút để phô diễn những hoài bão lớn lao, những chí khí cao cả.
Tương truyền Tô Đông Pha hỏi một người:
– Từ của tôi với từ của Liễu Vĩnh ra sao?
Đáp:
– Từ của Liễu Lang Trung chỉ để cho cô gái 17-18 cầm phách mà ca câu: “Dương liễu ngạn, hiểu phong tàn nguyệt” (Bờ dương liễu, trăng tàn, gió sớm); còn từ của Ngài thì phải để cho tráng sĩ ở Quan Tây gảy đờn tì bà bằng đồng, gỗ phách bằng sắt mà ca câu: “Đại giang đông khứ (Sông lớn chảy về đông – tức ra biển).
Người đó phê bình rất đúng: Ưu điểm của Tô là hùng, nhưng đó cũng chính là nhược điểm vì nhiều bài ca không được, thành ra một loại thơ tự do.
Cuối đời Bắc Tống, vua Huy Tôn kiêm họa sĩ và thi sĩ, từ sĩ, và Lý Thanh Chiếu phản động lại, bắt phải theo âm nhạc. Lý là một nữ sĩ đa tài, từ của bà tươi, đẹp du dương, lả lướt.
Đời Nam Tống, Tân Khí Tật dùng bạch thoại để viết từ, giọng cảm khái vô cùng, khi bi tráng, lúc lâm ly, hoặc hoài cổ, hoặc tự tình, tả sơn thủy hay cảnh điền viên, giọng nào cũng đặc sắc. Nhưng ông không làm thơ.” (5)
Trong chiều hướng tìm hiểu thêm về bài Từ, chúng tôi lục lại các trang sách cũ như Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm có ghi về văn chương của Khuất Nguyên, Dương tiên sinh viết:
“Về phương-diện văn-chương, ông vẫn được coi là tổ thi-ca của nước Tàu, vì nước ông chỉ có các bài ca-dao vô-danh chép trong Kinh Thi, lối văn thường đặt bốn năm chữ một câu. Đến ông đặt ra lối Sở-từ (lời của nước Sở) mỗi câu dài đến bảy tám chữ. Về sau, do lối Sở-từ mà thành ra lối thơ thất ngôn, cũng như do văn Kinh Thi mà thành ra lối thơ ngũ ngôn.” (6)
Khi nhắc về thân thế và sự nghiệp của Ôn Như Hầu, ở cuối thế kỷ XVIII, tác giả Phan Trần Chúc có viết: “Ôn Như Hầu sở trường về ca, từ. Ông có soạn ra hai bộ “Sơn Trung Am” và “Sở Từ Điệu” phổ vào âm nhạc. Về văn Nôm, Ôn Như Hầu lại càng xuất sắc hơn nữa. “Cung Oán Ngâm Khúc” đã làm ông trở nên bất tử trong văn học giới.”(7)
Rồi tiếp theo Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, quyển II, chương V: Quốc Văn Thời Tây Sơn của Phạm Thế Ngũ, ở mục IV: Trường hợp Phạm Thái – Quỳnh Như, tác giả có nhắc qua quá trình hình thành thể từ trong văn học Trung Hoa cũng như của Việt Nam qua đề mục: “Sự xuất hiện của bài Từ”:
“Trong những sáng tác của Phạm Thái và Quỳnh Như, còn lưu lại mươi bài Từ, đó cũng là một đặc sắc đáng chúng ta ghi nhận để kết thúc về đôi văn sĩ này.
Trong văn học Trung hoa, Từ là một thể thơ với những câu dài ngắn không đều và xuất hiện sau Thi. Đó là một thành tích của nhà thơ Trung Hoa muốn phá vỡ quy tắc khắt khe của bài Đường luật để đem lại cho điệu thơ nhiều biến đổi, cũng để thích ứng lời thơ cho việc phổ nhạc. Bài Từ khởi lên ngay từ đời Đường (Lý Bạch đã có làm, Ôn Định Quân đời Vãn Đường thường chuyên), qua đời Tống thì rất thịnh hành. Bài Từ không có một khuôn khổ duy nhất. Các thi gia, nhạc gia chế ra nhiều điệu, đặt cho mỗi điệu một tên (có cả trăm điệu, kể mươi điệu quen biết: Bồ tát man, Ức tân nga, Mộng Giang Nam, Điệp luyến hoa, Tây giang nguyệt, Trường tương tư, Tố ai tình…). Mỗi điệu có một số câu với số chữ và cách gieo vần nhất định.
Trong văn học ta bài Từ chữ Hán có ngay từ đời Lý (bài từ nổi tiếng của sư Ngô Chân Lưu tiễn sứ giả Lý Giác, theo điệu Tống Vương Lang Quy). Song về Việt văn thì có lẽ chỉ tới đây ta mới bắt gặp lần đầu dưới ngòi bút của Phạm Thái và Quỳnh Như. (Thật ra ở Tư Dung vãn của Đào Duy Từ ta đã thấy có xem những bài đoản ca gồm vài câu trường đoản cú song không theo rõ một điệu từ nào. Trong nhiều truyện nôm (như Truyện Kiều) ta cũng thấy giữa lời thuật sự, tác giả thường xen vào những bài thi, từ của nhân vật, nhưng các bài thi, từ ấy thường đều bằng Hán văn cả).
Cũng bởi Từ (ngay trong tinh thần Trung hoa) là lối sáng tác nặng màu tình cảm, thường mượn tiết tấu uyển chuyển, lời lẽ nùng diễm, để đạo đạt những u tình, kiển ngộ, nhất là rất xứng hợp để bọn tài tử giai nhân khơi tả nỗi sầu tư luyến tưởng. Cho nên ta không lấy làm ngạc nhiên thấy xuất hiện dưới bút của đôi công tử tiểu thư Lê mạt này trong câu truyện tình duyên của họ.
Tuy nhiên loại từ này không thấy nẩy nở về sau, trừ có ngành ca Huế về sau lợi dụng nở rộng rãi, còn không thấy dưới ngòi bút các thi gia. Có lẽ phần vì nó lả lướt, phóng túng, không mực thước nghiêm trang như bài Đường luật, nên không hợp với óc quy củ của nho gia ta, phần nữa vì nếu chỉ cần cho âm điệu biến đổi, tiết tấu phong phú thì ta đã có sẵn những lối song thất, hát nói, giàu nhạc tính hơn nhiều.
Trong những sáng tác của Phạm Thái và Quỳnh Như, bài Từ thường được lồng vào những câu lục bát hoặc song thất. Đây là hai thí dụ:
Thăm Chùa Non Nước
Trèo lên Dục thúy thăm chiền,
Non xanh nước biếc cảnh tiên dưới trần.
Thướt tha mây trắng một làn,
Như buông bốn phía cánh màn bạch sa.
Chim hót véo von chào khách,
Cỏ thơm hớn hở mừng ai.
Gió thu rung động mấy cành mai,
Khêu gợi hồn thơ lai láng.
Cầm bút để lên thạch tảng,
Một bài cổ tích cảm hoài.
Nào người chiến sĩ kẻ văn tài,
Khôn hỏi Nước non đâu tá?
(Trương Quỳnh Như)
Gởi Trương Quỳnh Như
Ai lên từ các thanh vân,
Hỏi thăm ả Tố, chiều xuân thế nào?
Cầm âm một khúc gởi trao,
Cậy lòng đì gió, đưa vào xuân cung.
Oanh yến véo von gọi khách,
Cỏ hoa hớn hở mừng ai.
Gió xuân hây hẩy giục đưa người,
Dễ khiến lòng thơ bối rối.
Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu,
Thung thăng phấn bướm đồi mai.
Vũ lăng xa diễn biết bao vời!
Khốn hỏi Đào Nguyên đâu tá?
Khốn hỏi Đào Nguyên đâu tá?
Giòng ngự câu đeo lá tình thi.
May thay một hội tương kỳ,
Đã bên tình phận lại bề phong lưu.
(Phạm Thái)
Hai bài Từ trên đều theo điệu Tây giang nguyệt, có 8 câu, 50 chữ. Bài Từ Trung hoa hiện rõ giữa các câu thơ ta vì chỉ có cước vận.(8)
Tiện đây xin ghi chú thêm về điệu Tây giang nguyệt: “Tây giang nguyệt cũng gọi là Bộ hư từ, là một trong những điệu từ ưa thích của nhà thơ Tàu. Để nhận rõ cách thức ta đã bắt chước như thế nào, có thể xét theo một bài từ chữ Hán, cũng điệu ấy, của Tô Thức đời Tống:
Hoàng Châu Trung Thu
Thế sự nhất trường đại mộng,
Nhân sinh kỷ độ tân lương.
Dạ lai phong diệp dĩ minh lang,
Khán thủ mi đầu mấn thương.
Tửu tiện thường sầu khách thiểu,
Nguyệt minh đa bị vân phương.
Trung thu thủy dữ cộng cô quang,
Bả trản thê nhiên bắc vọng.
(Trích trong “Tống từ Tam bách thư”) (9)
Dịp này, nhơn ở trên có nhắc đến bài từ của sư Ngô Chân Lưu tiễn sứ giả Lý Giác, theo điệu Tống Vương Lang Quy, xin ghi lại vài nét chính về vị sư Ngô Chân Lưu theo tài liệu dưới đây:
“Sư Ngô Chân Lưu danh tăng đời nhà Đinh (968-980). Theo tài liệu biên khảo không có sách nào ghi rõ tên là gì, Chân-Lưu là Pháp-hiệu. Ông trụ-trì tại chùa Phật-Đà, trước thọ giới với Vân-Phong thiền-sư (đời pháp thứ 3 của dòng Vô-Ngôn-Thông).
Chân-Lưu rất được Đinh-Tiên-Hoàng tin dùng và phong đến chức Khuông-Việt Quốc-Sư (Thái sư), ông thường tham dự để biểu quyết việc triều chính.
Năm 986 (Thiên-Phúc thứ 7), đời Tiền Lê, ông được vua cử ra tiếp đón sứ nhà Tống là Lý-Giác. Khi Lý-Giác cáo-biệt ra về, ông có làm bài thơ (từ) tiễn như sau:
“Tường quan phong hảo cẩm-phàm trương,
Thần tiên phục đế hương.
Thiên lý, vạn lý thiệp thương lăng,
Cửu thiên quy lộ trường,
Nhân tình thảm thiết đối ly trường.
Phan luyến sứ tình lang,
Nguyện tương thâm ý vị Nam-Cương.
Phân minh tấu ngã hoàng.”
Lê-Quý-Đôn có lời khen tặng Chân-Lưu như sau: “… Chân-Lưu từ-điệu danh chấn nhứt thời”, nghĩa là: “Điệu ca của Ngô-Chân-Lưu đã nổi danh một thời.” (10)
Trên đây là một vài tài liệu liên quan đến bài Từ qua các trang sách cũ mà tôi có dịp đọc được; còn bấy lâu nay tôi ít nghe ai nhắc về Từ; vả lại nếu mình muốn tìm tài liệu hoặc sách vở nhắc về thể văn xưa này cũng khó mà có được vì nhiều lúc hổng biết tìm kiếm ở đâu; nhưng mới vừa rồi, tình cờ mở tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 83, Hoa Kỳ, số mới nhứt vào tháng giêng năm 2019, tôi đọc được bài “Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan và Chướng Vân Từ” của Tô Thẩm Huy.
Tác giả Tô Thẩm Huy còn có bút hiệu Đàn Bách Kiếm hồi anh phụ trách mục “Đùa Với Đường Thi” trên tạp chí Văn Học (California, Hoa Kỳ) hồi thời nhà văn Cao Xuân Huy làm Chủ bút, với lời trần tình mà nghe như tâm sự của một người giữ vườn cho một thời thơ cũ:
“Đường Thi như đôi cánh hạc nghìn đời bay lượn trên thân phận con người. Tôi bơi lội trong Đường Thi, ngậm ngùi, đùa giỡn, lấy chút hồn cổ nhân về cấy sinh-tử-phù vào lòng mình.”
Nói về Từ, tác giả Tô Thẩm Huy viết: “Từ, hay từ khúc, là một dạng đặc biệt của thi ca. Đời nhà Đường đã thấy xuất hiện, nhưng phải đợi 100 năm sau, đến đời nhà Tống thì lúc bấy giờ mới là thời kỳ vàng son của từ.” (TQBT số 83, tháng 1-2019, trang 19). (11)
Vài trang tiêu biểu trong bài giới thiệu “Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan và Chướng Vân Từ” của Tô Thẩm Huy trên tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 83, tháng 1-2019.
Với một tâm hồn lúc nào cũng mê cổ văn cùng cái sức học chữ Hán của anh Tô Thẩm Huy vô cùng uyên bác qua những lời dẫn giải của anh, anh đã giúp tôi có thể lãnh hội được nội dung những bài Từ trong sách “Chướng Vân Từ” của Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan một cách rất hấp dẫn, dễ hiểu mà tâm hồn mình cũng miên man theo những nỗi lòng của người viết từ bằng chữ Hán hơn. Chẳng hạn như bài Giang Thành Tử, Tô Thẩm Huy diễn giải:
Nguyên văn:
“Quyển liêm sầu sát lưỡng mi tiêu.
Ảm vô liêu.
Mộng điều điều,
Tàn vũ thanh trung,
Ám ức dục toàn tiêu.
Dĩ sự thông thông lưu bất trú.
Như hà hướng,
Hựu kim tiêu.”
Dịch nghĩa:
“Tay cuốn rèm mà đôi mi đong đầy sầu muộn. U uất niềm đau, dằng dặc cơn mộng. Trong tiếng mưa tàn, nỗi thương thầm đã chực tiêu tan. Chuyện cũ vụt trôi chẳng kịp níu lại. Đêm lại về, lòng nào chịu cho thấu?”
Đọc lên nghe buồn đến chết người. Chao ôi, chữ nghĩa sao xui khiến tê tái cả cõi lòng. Buồn mà sung sướng lạ lùng. Từ là thế. Ngoài tính hàm súc và cô đọng của thi, từ mang nét uyển chuyển ấy càng hiển lộ, du dương người đọc theo cung cách mà thi không làm được.”(12)
Chẳng những tác giả dịch nghĩa, anh còn dịch bài từ vừa rồi ra quốc âm theo nguyên điệu của chính tác giả:
“Cuốn rèm sầu nhiễu khắp đôi mày.
Thảm niềm tây.
Mộng chầy chầy.
Trong tiếng mưa tàn,
Nỗi nhớ thảy mong khuây.
Chuyện cũ qua nhanh không ở lại.
Chịu sao thấu,
Lại đêm nay.” (13)
Với cách diễn giải, dịch nghĩa và dịch ra quốc âm rành mạch và súc tích từ những bài từ bằng Hán văn trong Chướng Vân Từ của Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan như vừa dẫn, tôi nghĩ phần dịch thuật và diễn giải của Tô Thẩm Huy hấp dẫn, giá trị không thua gì so với nguyên tác của tác giả Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan.
Vâng, trên đây là một vài trang sách cũ và mới bàn về bài Từ, để trở lại phần mở đầu, tôi có nhắc qua bài “Qui Khứ Lai Từ” của Đào Tiềm, mà nay cũng là những ngày cuối năm Mậu Tuất, sắp sửa bước qua năm mới Kỷ Hợi, với không khí hơi lành lạnh của tháng Chạp và cây trong vườn sắp sửa vào mùa Xuân; thêm nữa, tôi vốn lại là một người nhà quê già thích làm vườn, nên tôi xin chép lại bản dịch của Từ Long, như một món quà Tết năm này vậy!
Bài Từ “Về Vườn” (14)
Đi về, sao chẳng về đi?
Ruộng hoang vườn rậm, còn chi không về?
Đem tâm để hình hài sai khiến,
Còn ngậm ngùi than vãn với ai?
Ăn năn thì sự đã rồi,
Từ đây nghĩ lại biết thôi mới là.
Lối đi lạc chửa xa là mấy,
Nay khôn rồi chẳng dại như xưa.
Con thuyền thuận nẻo gió đưa,
Gió hây hẩy áo, thuyền lơ lửng chèo.
Hỏi hành khách lối nào đi tới,
Bóng mập mờ trời mới rạng đông,
Miền quê nẻo bước xa trông,
Chân hăm hở bước, đường mong tới nhà.
Chạy đón chủ năm ba đầy tớ,
Đứng chờ ông mấy đứa trẻ con.
Rầm rì ba khóm con con,
Mấy cây tùng cúc hãy còn như xưa.
Tay dắt trẻ vào nhà mừng rỡ,
Rượu đâu đà sẵn chứa đầy vò.
Thoạt ngồi tay đã nghiêng hồ,
Cười nom sân trước thấp tho mấy cành.
Ngồi giễu cợt một mình trước sổ,
Khéo cũng hay vừa chõ rung đùi.
Thăm vườn dạo thú hôm mai,
Cửa dù có, vẫn then cài như không.
Chống gậy dạo quanh vườn lại nghỉ,
Ngắm cảnh thời khi ghé trông lên.
Mây đùn mấy đám tự nhiên,
Chim bay mỏi cánh đã quen lối về.
Bóng chiều ngả bốn bề bát ngát,
Quanh gốc tùng tựa mát thảnh thơi.
Từ đây về thực về rồi,
Thôi xin từ tuyệt với người vãng lai.
Ví ta đã với đời chẳng hiệp,
Cần chi mà giao thiệp với ai?
Chuyện trò thân thích mấy người,
Bạn cùng đèn sách khi vui đỡ buồn.
Người làm ruộng ôn tồn hỏi chuyện,
Tới xuân rồi sắp đến việc ta.
Hoặc truyền sắm sửa cân xa (*)
Hoặc khi đủng đỉnh thuyền ra cõi đồng.
Dưới khe nọ nước vòng uốn éo,
Bên đường kia gò kéo gập ghềnh,
Cỏ cây mơn mởn màu xanh,
Suối tuôn róc rách bên ghềnh chảy ra.
Ngắm muôn vật đương mùa tươi tốt,
Ngán cho ta thời trót già rồi.
Thôi còn mấy nỗi ở đời,
Khứ lưu sao chẳng phóng hoài (**) tự nhiên.
Cớ chi nghĩ thêm phiền tấc dạ,
Đi đâu mà tất tả vội chi?
Giàu sang đã chẳng thiết gì,
Cung tiên chưa dễ hẹn gì lên chơi.
Chi bằng lúc trời chiều êm ả,
Việc điền viên vất vả mà vui.
Lên cao hát một tiếng dài,
Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu.
Hình thể này mặc dầu tạo hóa
Tới lúc nào hết cả thì thôi,
Lòng ta phó với mệnh trời,
Đừng ngờ chi nữa, cứ vui vẻ hoài.
(Từ Long dịch)(***)
Sau hết, xin kèm vài hình HT làm vườn và nếm chút cà phê như một chút nhàn, một chút vui giữa những ngày giáp Tết khi mình sắp thêm một tuổi nữa rồi…
Hai Trầu vừa làm vườn vừa nhâm nhi tách cà phê những ngày giáp Tết Kỷ Hợi 2019. (Ngày 03 tháng 02 năm 2019)
Hai Trầu
Houston, ngày 03 tháng 02 năm 2019
******
Cước chú:
1/ Một Quan Niệm Sống Đẹp của Lâm Ngữ Đường, Nguyễn Hiến Lê lược dịch, nhà xuấn bản Tao Đàn, Sài Gòn, 1964, Chương 10: Hưởng thụ thiên nhiên, mục 7: Vài câu cách ngôn của Trương Trào, phần Sơn Thủy, trang 239.
2/ Cổ Văn Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê , nhà xuất bản Tao Đàn, Sài Gòn, năm 1966, trang 156.
3/ Cổ Văn Trung Quốc, sách đã dẫn, trang 160.
4/ Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, do Trần Văn Giáp biên dịch và khải thích, Trần Văn Khang làm sách dẫn, Cao Xuân Huy hiệu đính và giới thiệu, nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin, 43 Lò Đúc, Hà Nội, năm 2006, trang 237.
5/ Theo quyển Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, nhà xuất bản Văn Nghệ, California (Hoa Kỳ), năm 2003, chương IV, mục D (Văn Hóa), tiết mục Sử học, trang 396.
6/ Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm, Hà Nội, 1941; nhà Xuân Thu (Hoa Kỳ) in lại, không thấy ghi năm, trang 243.
7/ Văn Chương Quốc Âm Thế Kỷ XIX của Phan Trần Chúc, nhà Khai Trí tái bản lần thứ hai, Sài Gòn, ngày 01 tháng 8 năm 1960, trang 30
8/ Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, quyển II, chương V: Quốc Văn Thời Tây Sơn của Phạm Thế Ngũ, ở mục IV: Trường hợp Phạm Thái- Quỳnh Như, nhà xuất bản Quốc Học Tùng Thư, Sài Gòn, quyển II, năm Nhâm Dần, trang 254. (Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, trọn bộ gồm 3 quyển, 47 chương, dày 1530 trang, do Quốc Học Tùng Thư xuất bản, Sài Gòn 1961 – 1965).
9/ Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên của Phạm Thế Ngũ (sách đã dẫn), trang 256.
10/ Trích trong Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển của Giáo sư Trịnh Thanh Vân, nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, năm 1967, quyển II, trang 787.
11/ Tạp chí văn học nghệ thuật Thư Quán Bản Thảo số 83, tháng 1-2019 (Hoa Kỳ) do Trần Hoài Thư và Phạm Văn Nhàn chủ trương và ấn hành, trang 15.
12/ TQBT, sđd, trang 20.
13/ TQBT, sđd, trang 21.
14/ Trích Cổ Văn Trung Quốc, sđd, trang 182.
(*) Cân xa là xe có màn.
(**) Phóng hoài là thả lỏng.
(***) Từ Long, là tên hiệu của cụ Lê Đạt, một nhà nho trong nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục, môn đệ của cụ Vũ Phạm Hàm, văn thơ tươi đẹp, nhưng thi mấy khoa không đậu. Đặc biệt nhất là thơ nôm của cụ cũng hay ) mà chữ viết cũng tốt), đọc bản dịch trên chắc độc giả đã nhận thấy điều đó.
(Chú thích của học giả Nguyễn Hiến Lê trong sách Cổ Văn Trung Quốc, sách đã dẫn).